Thằng Tính bỗng nói:
- Dì Ngọc, kể chuyện ma đi...
Con Thảo gạt đi:
- Ma với mãnh gì, ghê bỏ bà.
- Sợ gì, truyện chứ đâu có thật... Dì kể đi dì.
Thằng Tiến cũng tán thành, nói:
- Mấy chị sợ thì đi ngủ đi, tụi em ngồi canh bánh chưng, nghe dì kể chuyện ma... Thế mới thú chứ. Rõ nhát.
Hai cô chị không muốn bị cậu em họ chê là nhát, nên ngồi yên.
Ngọc cười khẽ:
- Được, dì kể chuyện ma cho mà nghe. Nhưng còn cái này thú hơn là chuyện ma nữa kia.
Tụi cháu nhao nhao:
- Gì thế dì?
Ngọc cười:
- Bí mật.
Nàng nói xong, đi nhanh vào bếp. Một lúc sau, Ngọc ra với một bọc nhỏ trên tay. Bốn chị em Lan giương mắt chờ đợi. Ngọc ngồi xuống, nhìn các cháu mỉm cười hãnh diện:
- Xem đây.
Vừa nói, nàng vừa mở bọc giấy báo. Năm sáu củ khoai sống đổ ra mặt đất. Bốn cặp mắt sáng lên:
- Trời ơi, còn gì thú bằng!
Đã có đứa nuốt nước bọt ừng ực.
Ngọc cười:
- Để mình vừa nướng khoai, vừa kể chuyện ma.
Con Lan nói:
- Nhà mình đã nghèo kiết xác mà dì còn nhớ tới cái vụ này... dì thực thương các cháu...
Bình thường mà được ăn khoai đã khoái, bây giờ, bụng vừa đói, lại ở cái không khí thân mật, đầm ấm này, ăn miếng khoai vùi lại càng thú vị hơn. Từ xưa đến nay, nhà này vẫn có lệ những đêm ngồi canh bánh chưng là nướng khoai ăn... Món ăn vừa lành lại vừa ngon miệng.
Lan thay dì khơi than, vùi khoai. Ngọc nhắc chừng:
- Coi chừng không lấy ra kịp, để cháy đen là uổng lắm đấy, nhé.
Lan nhận trách nhiệm coi chừng mấy củ khoai.
Tiến nhắc dì:
- Dì kể chuyện ma đi.
- Ừ, để dì nhớ lại đã. Ngày trước cậu Sáu kể cho dì nghe nhiều lắm, lâu ngày quên gần hết. Để nhớ lại xem sao.
Mấy đứa nhìn dì, chờ đợi.
Ánh lửa bập bùng, hắt ra làm bóng mấy dì cháu chập chờn ẩn hiện trên tường. Sự yên lặng của mọi người càng tăng vẻ quạnh quẽ của đêm cuối năm.
Ngọc nhìn qua lớp hơi nước của nồi bánh chưng, mường tượng tới cái cảnh canh bánh chưng năm nào. Khuôn mặt xương xương của anh Sáu, đôi mắt long lanh của thằng Khánh, con anh, thằng bé tí teo cũng đòi thức canh bánh trong cái Tết cuối cùng còn ở quê nhà... Hình ảnh chị hai đầu tóc lòa xòa, vật vả trên giường bệnh... Tiếng khóc thảm thiết của mẹ, của đám con nheo nhóc sớm mồ côi mẹ của chị... Ngọc bỗng rùng mình... quay nhìn lại con Lan, con Thảo.
Như giao cảm được với tâm tư của người dì ruột, con Lan bỗng nói:
- Thôi dì, kể chuyện vui đi...
Ngọc không nghĩ thế, nàng vẫn muốn kể một câu chuyện ma nào đó... gọi là giữ cái "truyền thống canh bánh chưng" của gia đình, nàng muốn cho đám cháu thấy được cái ý của mình, nên nói:
- Không, lúc này nghe chuyện ma thú vô cùng... các cháu đừng bỏ lỡ cơ hội... một năm mới có một lần. Những năm tới, nếu các cháu có thay dì nấu bánh, cũng kể chuyện ma cho các em nó nghe...
Tụi con trai nhao nhao:
- Dì nói đúng. Sau này, cháu lại kể chuyện ma nghe được đêm hôm nay.
Ngọc cười:
- Tốt. À năm nay là năm con cọp, dì kể chuyện ma Hổ cho các cháu nghe. Người viết chuyện ma Hổ là ông Đái Đức Tuấn, bút hiệu là TCHYA. Ông ta viết hai cuốn về ma Hổ, một là chuyện Thần Hổ, hai là chuyện Ai Hát Giữa Rừng Khuya. Người ta tương truyền rằng khi một con hổ sống lâu năm, ăn thịt được nhiều người, nó có thể thoát xác thành một ông cụ già, râu tóc bạc phơ. Một ngày kia, có một nhóm người gồm hai cô ả đào và một anh kép đánh đàn được mướn lên hát tại nhà một ông quan lang của một làng Mường trên miền thượng du. Đêm hôm đó, trời sáng trăng, ba người đi ngang qua một khu rừng rậm, một con hổ lớn xuất hiện bắt đi mất hai cô gái. Anh kép đàn leo lên cây trốn thoát. Đêm hôm sau, anh này trở lại khu rừng theo dõi con hổ và tìm tung tích hai cô gái. Anh ngồi rình trên cây tại nơi hôm trước gặp nạn. Tới khuya, anh thấy con hổ tới ngồi ở một khu đất trống gần đó, dưới ánh trăng vằng vặc. Rồi chẳng mấy chốc, anh nhạc sĩ vô cùng sửng sốt khi thấy con hổ dần dần thoát xác thành một lão già, râu tóc bạc phơ, chung quanh hiện lên vô số con gái, đầu tóc xõa ra, nhảy múa chung quanh lão già làm vui. Rồi bỗng nhiên, hai cô ả đào bạn hiện ra, ngồi xuống bên cạnh lão già, cất tiếng hát véo von... tay đánh nhịp sênh. Và cũng từ đó, mỗi khi có trăng lên, người dân ở vùng lân cận khu rừng nếu chịu lắng tai, sẽ nghe được tiếng hát tiếng sênh của hai cô ả đào này vọng ra từ trong khu rừng đó. Người ta gọi những con ma theo con hổ thành tinh này là ma trành.
Ngọc không nhớ rõ truyện, thiếu nhiều chi tiết nên không hấp dẫn mấy đứa cháu. Tụi chúng vẫn ngồi im, như chờ đợi một cái gì rùng rợn hơn là câu chuyện vừa rồi. Ngọc cố moi trí nhớ... Nàng bỗng nhớ chị hai xưa có kể chuyện trông thấy ma. Hồi nhỏ, một hôm chị đi cầu một mình, bỗng thấy một con nhỏ, mặc áo dài tứ thân, đội nón nồi rang, leo lên xà nhà cầu, đi đi lại lại ở trên đó, cười cười với chị. Chị không biết sợ, đem chuyện đó kể lại với ông nội, làm các người lớn phát khiếp, vì đó là một con ma "tiểu nhi" thường hiện ra để rủ những đứa trẻ đi theo nó.
Ngọc định kể chuyện này cho tụi cháu nghe, nàng đổi thế ngồi, hắng giọng, khẽ nói:
- Má cháu Lan ngày xưa có gặp ma, một con ma tiểu nhi...
Bỗng từ trong nhà vọng ra một tiếng động lớn, như ai đánh rớt một vật gì trên sàn đá hoa. Lan vội chạy vào, nhưng không thấy gì bể cả.
- Cái gì bể vậy Lan?
- Không sao cả dì. Một cái ly rớt xuống đất, nhưng may không bể.
Tự nhiên Ngọc cảm thấy thất vọng... "Chị hai, lúc này là lúc thuận tiện nhất, sao chị không về với chúng em... Chiếc nhẫn của chị mà... Chị phải tỏ một dấu hiệu gì để họp mặt với gia đình chứ? Tụi em không sợ đâu?".
Nhưng bốn bề vẫn vắng ngắt. Ngọc chăm chú nhìn bếp nấu bánh, nàng bỗng thấy như có ai nhấc chiếc vung nồi bánh lên... Hồi hộp... Làm mạnh lên... nếu đúng là chị hai đã về... nhưng không, chiếc vung chỉ rung nhẹ, có lẽ... có lẽ chỉ do hơi nước bốc lên thôi!
Hiện tại coi như đã bỏ đi, hy vọng cuối cùng của mọi người là "đời sống ngày sau", vào sự giúp đỡ của các đấng thiêng liêng mà thôi. Chưa bao giờ con người gần gũi với Thượng Đế đến thế, vì chỉ còn có Ngài là nguồn an ủi duy nhất.
- Chắc khoai được rồi, dì ạ.
Tiếng con Thảo cắt đứt dòng suy tư của Ngọc, nàng bừng trở về với thực tại, vội nói:
- Phải rồi, lấy lẹ ra không cháy thì hết ăn.
Có mấy củ khoai nướng khiến không khí trở nên vui vẻ. Khoai chín tới, mật chảy ra, ăn ngọt lịm. Chỉ tiếc là ít quá.
Ngọc nhắc:
- Vùi cả mấy củ còn lại đi... để chốc nữa Sinh và Hoan ăn.
Ngọc hỏi bâng quơ:
- Mấy giờ rồi?
Tiến chạy vào trong nhà xem đồng hồ, rồi ra nói:
- Hai giờ rồi dì.
Ngọc nghĩ: "Hai giờ là giờ âm thịnh... sao chẳng thấy chị hai về?".
Lòng mong đợi của nàng mạnh đến nỗi nàng như mong một người chị còn sống... của một đứa con mong mẹ về chợ. Nhưng rồi cũng chẳng thấy một dấu hiệu gì của chị hai cảm thông với nàng. Ngọc thất vọng và buồn vô cùng: "Chị hai chẳng thương tụi em, chị hai ơi!". Mắt nàng như rướm lệ.
Bỗng từ trong nhà, Sinh và Hoan vút đi ra:
- Thôi đã đến giờ của tụi cháu, dì và sấp nhỏ đi ngủ đi... để mai còn dậy sớm.
Hai đứa con gái cùng đứng lên:
- Đến phiên mấy ông rồi, mình đi ngủ đi dì.
Ngọc như còn muốn nán lại đó để đợi người chị thương yêu, người chị tuy chẳng còn trên đời này, nhưng nàng vững tin vẫn còn có mặt quanh quất đâu đây, ở một thế giới vô hình nào đó. Chị đang đứng sau tấm gương, tấm gương chia đôi sự sống và cái chết. Trong gương, người sống chỉ nhìn thấy cuộc đời thực tại, còn những sinh hoạt sau tấm gương, có thực đấy, nhưng mình chẳng trông thấy được. Ở đó là đời sống thiêng liêng... Ngọc tin như vậy.
Sinh phải nhắc tới mấy lần, Ngọc mới miễn cưỡng vào nhà để đi ngủ. Nằm xuống giường, Ngọc vẫn còn thì thầm trong bụng:
- Chị hai về đi, em không sợ chị đâu!
Tuy thế, bốn bề vẫn vắng lặng... đêm trôi qua thực êm.
Nhưng có một điều lạ là sáng mồng một Tết, khi cả gia đình Ngọc sum họp ăn bữa đầu năm... mọi người rất ngạc nhiên khi bắt gặp chiếc nhẫn cưới của chị hai nằm gọn giữa lớp nhân của chiếc bánh đặc biệt được đánh dấu bằng sợi dây điều!
Bà cụ hỏi:
- Ai gói chiếc bánh này vậy Ngọc?
Ngọc đáp lơ đãng:
- Có lẽ chị Hiền gói, mẹ ạ...
Cả gia đình lặng yên.
-- http://viptruyen.pro --
Chương 6 - Lạc Giữa Rừng Mơ
Đà Lạt
Phía nam Đà Lạt, trên đường đi đèo Ngoạn Mục, chùa Sư Nữ chênh vênh trên sườn đồi.
Người thiếu phụ tạ từ sư bà, trở gót. Cánh cửa tam quan sơn mầu son vừa khép lại sau lưng. Chiều xuống. Ánh nắng vàng chỉ còn đọng trên một phần những bậc xi măng mầu xám ở trên này. Phần dưới kia đã mờ tối. Lối xuống nhỏ lại dần tới tận chân đồi.
Người đàn bà còn trẻ. Đôi má mịn màng hây hây, làn da đẹp nổi tiếng của các kiều nữ Đà Lạt. Đôi mắt đen láy, thực buồn. Nàng đang có tâm sự. Cửa Phật là nơi nàng thổ lộ tâm tình. Là nơi bấu víu cuối cùng của cuộc đời. Cầu xin Trời Phật độ cho chồng con, cho thân phận côi cút còn kẹt lại ở quê nhà.
Nàng thực bơ vơ giữa nơi quê hương mà lòng như một sa mạc quạnh hiu. Dưới kia, trại Hầm sương chiều giăng mắc. Từ đây nhìn xuống, thung lũng mận mơ trắng xóa hoa xuân. Mấy mái nhà ngói đỏ ẩn hiện trong lùm cây xanh đậm màu. Nhà nàng nhỏ xíu, ở xa tít bìa rừng phía đông. Trong đó, giờ này chẳng còn ai. Chồng xa từ lâu. Hai đứa con đã gửi đi chui. Nàng cũng đang sửa soạn cho một chuyến liều mạng. Rừng mận nhà nàng thì đành bỏ lại.
Tiếng thở dài nhẹ nhẹ vang lên trong chiều vắng. Người thiếu phụ khẽ đến những bước chân lơ đãng, bỏ dần sau lưng 138 bậc thềm xi măng. Trời lạnh sương mù tạt qua trước mặt, con đường đất đỏ vắng ngắt. Những gốc mận dại mọc hoang hai bên đường nở đầy hoa trắng như tuyết pha. Nàng ngậm ngùi nhớ lại những ngày thơ mộng xa xưa. Đôi mắt người đẹp đất Đà Lạt trăng mơ. Tất cả rồi cũng đã qua đi như một giấc mộng. Nhưng kỷ niệm êm đềm sẽ muôn đời không phai. Nàng thương từ ngọn cây, cọng cỏ, từ đại lộ phố thị cho tới con đường viền cỏ xanh dẫn vào rừng cây trái. Người chồng thương yêu trao thân gửi phận. Một thời hoa bướm nhân tình. Thành phố của tình yêu, của trăng, của hoa, của đồi thông bốn mùa xanh ngắt, của hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, những ngọn thác ân tình. Nay mai, một chuyến đi vô cùng nguy hiểm lênh đênh, mong tới một chân trời xum họp. Nàng hồi hộp, lo sợ. Tương lai mịt mờ và đầy bất trắc.
Bỗng có tiếng cười khan ở đàng trước mặt. Nàng nhìn lên. Một bóng áo vàng ngạo nghễ chặn ngang đường. Nàng run sợ. Nó đã theo mình từ lúc nào. Tên công an ở đồn phía trên chùa Sư Nữ. Thằng đàn ông đểu giả đã bám nàng mấy lúc gần đây.
Con đường độc đạo khiến nàng không lối thoát. Bối rối. Sợ hãi tột cùng. Đường quá vắng vẻ. Thực ác. Định mệnh thực ác.
Nàng ngừng lại. Rồi lùi. Hắn tiến đến mau như chớp. Hai tay giang ra chụp bắt. Nàng chống cự mãnh liệt nhưng không thoát. Ú ớ rồi la lớn lên thất thanh. Tiếng vang vọng tới cuối rừng mận mơ, nhưng không một lời đáp ứng! Hắn biết điều đó rất rõ. Không một ngần ngại. Làm tới. Nàng vùng vẫy, van lơn. Mặc! Không xong rồi. Ngàn năm một thủa. Con hùm đói đã vồ được mồi ngon. Không thể kìm hãm. Vào bụi rậm ven đường. Cần gì phải vào bụi bờ vì có làm ngay trên mặt lộ cũng chẳng ai thấy. Nhưng hắn vẫn lôi nàng vào bụi rậm. Những mảnh quần, áo xé vội. Mặc nàng la hét. Làn da trắng phau lung linh trước mặt. Nàng kiệt sức, rồi, thế là xong một đời, cấu, cắn, la, cuối cùng cũng xong. Nàng hét lên lúc bừng tỉnh cơn hãi hùng:
- Tao sẽ tố cáo mày lên Huyện ủy. Tao sẽ tố cáo mày. Thằng quỷ.
Thằng quỷ cười hềnh hệch. Rồi tiếng cười chợt tắt. Đôi mắt quắc lên, gân máu mắt đỏ lòm, răng nhe, hàm bạnh ra, hai bàn tay gồng lên xiết chặt. Nàng thoáng thấy việc chẳng lành, nhưng đã muộn! Cổ nghẹt. Mắt trợn ngược, những giọt nước mắt đớn đau, tủi nhục đổ như suối trên má, tắc nghẽn, êm xuôi...
Tên công an vất cái xác lõa lồ vào rừng sâu. Hắn đã giết hàng trăm mạng, chứ đâu phải đây là lần đầu! Thản nhiên sửa lại áo quần, bỏ đi về đồn công an.
Trên kia, chùa Sư Nữ mầu đỏ chót, vắng hoe!
Thung Lũng Hoa Vàng
Trong thời gian đó, tại San Jose, tiểu bang California, người chồng đã có vợ khác từ bao giờ! Đầu mùa xuân, hai đứa nhỏ được đón sang Mỹ từ một trại tỵ nạn ở Thái Lan. Con Hiền mới lên chín, thằng Vũ em nó mới bảy tuổi đầu. Gầy còm, đen đủi, ngớ ngẩn đến tội nghiệp. Chúng chẳng biết đây là đâu. Chúng chẳng biết đã rời xa quê hương hàng nửa vòng trái đất.
Người cha dạy hai con gọi người vợ mình bằng Mẹ. Hai đứa trẻ trố mắt nhìn nhau ngần ngại. Thằng Vũ phụng phịu:
- Mẹ ở Đà Lạt. Mẹ bảo Tết sẽ đón chúng con về mà.
Mắt người đàn bà lay động. Sắc mặt đổi khác. Con Hiền thoáng thấy có gì khác lạ:
- Mày đừng cãi bố. Chào mẹ đi.
Hai đứa khoanh tay cúi đầu trước người mẹ xa lạ, nhưng cũng không đủ làm cho mặt cô ta tươi lại.
Buổi tối, hai vợ chồng ngồi bàn chuyện hai đứa nhỏ.
- Mai anh đi xin cho chúng nó vào trường. Trưa về, tìm babysitter gửi...
Người vợ sẽ thở dài, gạt đi:
- Thôi, thư thả. Quanh đây không có babysitter. Chúng nó mới tới, để ở nhà ít lâu đã rồi hãy hay. Lớn rồi, chúng cũng biết tự lo lấy mọi chuyện.
Căn nhà ba phòng ngủ trước đây vắng vẻ, nay rộn lên tiếng cười đùa của hai đứa nhỏ. Vợ chồng bỏ ra đi từ rất sớm trước khi chúng nó thức dậy. Theo lời bố dặn, con Hiền và thằng em tự lo bữa ăn với các thực phẩm đã mua sẵn, để trong tủ lạnh.
- Mày ăn hột gà không? Nhiều quá.
Mỗi đứa ăn một chiếc trứng gà với bánh san-uýt. Thằng Vũ muốn ăn thêm, nhưng con Hiền gạt đi:
- Ồ, không được, năm chục đồng một chiếc hột gà đấy mày.
Thằng nhỏ tiu nghỉu. Trong tủ lạnh đầy thịt, nhất là thịt gà. Hồi còn ở nhà, chỉ có ngày giỗ chạp hay Tết nhất chúng mới được ăn thịt gà, còn thì là rau muống với cơm độn khoai.
- Mày có biết đây là đâu không?
Thằng Vũ hỏi con Hiền. Con chị ngẩn ra một chập, rồi nói bừa:
- Tao cũng không biết. Hồi ở trong trại, cứ thấy nói đi... Mỹ. Mỹ Tho chứ gì...
Thằng Vũ nhớ ra điều gì, cướp lời:
- Còn đi Tây... là Tây Ninh chứ gì.
Con Hiền cười:
- Có người phải đi Phi... chắc là phi trường Tân Sơn Nhứt, mày nhỉ?
Chúng nó ở trong trại không lâu, nên cũng không biết được gì hơn. Con Hiền nằm xoài trên thảm phòng familyroom:
- Mặc kệ, đâu cũng được. Nhưng sao ở đây coi mòi sướng hơn ở Sài Gòn nhiều.